Sự trùng lặp bộ phận với các loại khác Giới_từ

Trạng từ

Có nhiều điểm giống nhau về dạng giữa giới từ và trạng từ. Một số trạng từ rõ ràng có nguồn gốc từ sự hợp nhất giới từ và bổ ngữ của nó, một số giới từ có sử dụng tựa trạng từ không bổ ngữ.

  • {down the stairs}/downstairs, {under the ground}/underground.
  • {inside (the house)}, {aboard (the plane)}, {underneath (the surface)}

Có thể xử lý tất cả các trạng từ này như nội giới từ, ngược với ngoại giới từ chọn bổ ngữ (tương tự như nội động từ và ngoại động từ). Phân tích này[11] cũng có thể được mở rộng cho các trạng từ khác, thậm chí ngay cả cho những trạng từ không thể được dùng như giới từ "bình thường" với bổ ngữ danh nghĩa:

  • here, there, abroad, downtown, afterwards, …

Một cách tiếp cận bảo thủ hơn đó là: nói một cách đơn giản các trạng từ và giới ngữ chia sẻ nhiều chức năng chung.

Tiểu từ

Trong tiếng Anh, động ngữ tạo nên từ một động từ và một tiểu từ trông cũng giống như nội giới từ. Điều này cũng đúng với tiền tố động từ biệt lập trong tiếng Đức và tiếng Hà Lan.

  • give up, look out, sleep in, carry on, come to
  • tiếng Hà Lan: opbellen ("to call (by phone)"), aanbieden ("to offer"), voorstellen ("to propose")
  • tiếng Đức: einkaufen ("to purchase"), aussehen ("to resemble"), anbieten ("to offer")

Mặc dù những yếu tố này có cùng dạng từ vựng với giới từ, nhưng trong nhiều trường hợp, chúng không có ngữ nghĩa liên hệ, và bổ ngữ không bị "bỏ quên" khi đặc tính của nó có thể được phục hồi từ văn cảnh.

Liên từ

Tập hợp giới từ che phủ một phần tập hợp liên từ phụ thuộc (hay complementizer):

  • (giới từ) before/after/since the end of the summer
  • (liên từ) before/after/since the summer ended
  • (giới từ) It looks like another rainy day
  • (liên từ) It looks like it's going to rain again today

Tất cả những từ này có thể được coi như giới từ nếu chúng ta mở rộng định nghĩa cho phép các bổ ngữ mệnh đề.

Việc này cũng có thể được mở rộng hơn nữa cho các liên từ không bao giờ được dùng như những giới từ thông thường:

  • unless they surrender, although time is almost up, while you were on the phone

Coverbs

Trong một số ngôn ngữ, vai trò của giới từ có thể được phục vụ bởi coverb. Coverb là động từ về mặt từ vựng, nhưng nói chung được dùng để chuyển tải ý nghĩa của giới từ.

Ví dụ, việc tồn tại giới từ trong tiếng Trung hay không đôi khi vẫn được xem là một câu hỏi mở. Coverb thường được gọi là giới từ vì chúng xuất hiện trước danh ngữ mà chúng xác định. Tuy nhiên, không giống như giới từ, coverb thỉnh thoảng có thể đứng một mình như động từ chính. Ví dụ, trong tiếng Standard Mandarin, dào có thể được dùng với ý nghĩa giới từ hoặc động từ:

  • qù ("to go") là động từ chính: 我北京去。Wǒ dào Běijīng qù. ("I go to Beijing.")
  • dào ("to arrive") là động từ chính: 我了。Wǒ dào le. ("I have arrived.")

Phụ tố cách

Từ điểm quan sát chức năng, giới từ và đánh dấu cách hình thái học giống nhau một cách lạ lùng. Một giới ngữ trong một ngôn ngữ thường tương ứng trực tiếp với một danh ngữ được đánh dấu cách trong ngôn ngữ khác. Ví dụ, danh ngữ tác động trong cấu trúc bị động tiếng Anh được giới thiệu bởi giới từ by, nhưng trong tiếng Nga nó được đánh dấu bởi cách công cụ: "oy", "om", hoặc "ami", phụ thuộc vào giống và số của danh từ. Thỉnh thoảng cả giới từ và cách cùng được quan sát thấy trong một ngôn ngữ đơn lẻ. Ví dụ, trong một số cách dùng nhất định, thuộc cách trong tiếng Đức có thể thay bằng giới ngữ von.

Mặc dù có sự tương đồng chức năng này, giới từ và đánh dấu cách khác biệt về từ loại ngữ pháp:

  • Giới từ kết hợp cú pháp với cụm bổ ngữ của nó. Đánh dấu cách kết hợp với một danh từ theo hình thái học.
  • Hai giới từ thường có thể được gắn với một liên từ và cùng chia sẻ một bổ ngữ đơn, nhưng đối với đánh dấu cách điều này thường là không thể:
{of and for the people} vs. tiếng Latin populi et populo, not *populi et -o ("people-genitive and -dative")
  • Một giới từ thường có thể kết hợp với hai bổ ngữ phối hợp, nhưng đối với đánh dấu cách điều này thường là không thể:
of {the city and the world} vs. tiếng Latin urbis et orbis, not *urb- et orbis ("city and world-genitive")
  • Đánh dấu cách kết hợp chủ yếu với danh từ, trong khi giới từ có thể kết hợp với cụm nhiều từ loại khác nhau.
  • Đánh dấu cách thường xuất hiện trực tiếp trên danh từ, nhưng một giới từ có thể được tách khỏi danh từ bằng những từ khác.
  • Trong danh ngữ, từ hạn định và tính từ có thể hòa hợp với danh từ trong cách (sự lan rộng cách), nhưng một giới từ có thể chỉ xuất hiện một lần duy nhất.
  • Một ngôn ngữ có thể có hàng trăm giới từ (bao gồm giới từ phức), nhưng không ngôn ngữ nào có nhiều cách hình thái học khác nhau.

Tuy vậy, rất khó để vẽ ra một ranh giới rõ ràng giữa đánh dấu cách và giới từ. Ví dụ, các yếu tố hậu-danh nghĩa trong tiếng Nhậttiếng Hàn lúc thì được gọi là tiểu từ cách, lúc thì được gọi là hậu giới từ. Đôi khi chúng được phân tích như hai nhóm khác nhau vì có những đặc điểm khác nhau. (ví dụ khả năng kết hợp với các tiểu từ tập trung), nhưng trong những phân tích như vậy, việc xác định từ nào rơi vào nhóm nào là không rõ ràng.

  • Tiếng Nhật: 電車 (densha de, "by train")
  • Tiếng hàn: 한국 (Hangug-e, "to Korea")

Tiếng Thổ Nhĩ Kỳtiếng Phần Lan có cả đánh dấu cách mở rộng và hậu giới từ, ở đây có dấu hiệu giúp cho việc phân biệt hai loại:

  • Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: (case) sinemaya (cinema-dative, "to the cinema") vs (postposition) sinema için ("for the cinema")
  • Tiếng Phần Lan: (case) talossa (house-inessive, "in the house") vs (postposition) "talon edessä (house-gen in-front, "in front of the house")

Trong những ví dụ này, đánh dấu cách tạo một từ cùng với chủ của nó (như được chỉ ra bởi sự hòa hợp nguyên âm), các hiệu ứng nội từ khác, và sự hòa hợp của tính từ trong tiếng Phần Lan, trong khi đó các hậu giới từ là những từ độc lập.

Một số ngôn ngữ, như tiếng Phạn, dùng hậu giới từ để nhấn mạnh ý nghĩa của cách ngữ pháp, và loại bỏ sự mơ hồ trong nghĩa của cụm từ. Ví dụ:रामेण सह (Rāmeṇa saha, "in company of Rāma"). Trong ví dụ này, "Rāmeṇa" ở trong cách công cụ, nhưng, vì ý nghĩa của nó có thể mơ hồ, nên hậu giới từ saha được dùng để nhấn mạnh ý nghĩa của company.

Trong ngữ hệ Ấn - Âu, mỗi cách thường gồm nhiều hậu tố khác nhau, một vài trong số chúng thậm chí có thể xuất phát từ các gốc khác nhau. Một hậu tố được chọn tùy thuộc vào giống, số, tùy thuộc vào từ đó là danh từ hay từ bổ nghĩa, và các nhân tố khác.